Cây Ngải tiên

Ngải tiên có tên tiếng Anh là Butterfly Lily, white ginger, Garland flower – Hedychium coronarium Koenig, thuộc họ Gừng – Zingiberaceae. Cây Ngải tiên ngày nay được trồng nhiều nơi trên thế giới với mục đích làm cảnh và lấy tinh dầu thân rễ để làm nước hoa và làm thuốc, Tinh dầu của hoa là một loại hương liệu cao cấp. Cây Ngải tiên (Hedychium coronarium Koenig) mọc tự nhiên  tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

1. Mô tả:

ngai tien sCây thảo cao 1-2m, có thân giống cây Gừng. Lá không cuống, hình mũi mác hay hình dải mũi mác, nhọn cả hai đầu, nhẵn ở mặt trên, có lông dễ rụng ở mặt dưới, dài tới 60cm, rộng 12cm, thon. Cụm hoa hình trứng, dạng nón của cây thông; lá bắc hẹp. Hoa to màu trắng, rất thơm; đài dạng ống không có răng, tràng có ống dài và có 3 thuỳ hẹp; nhị có chỉ nhị trắng, nhị lép xoan ngược, có móng dài; cánh môi xoan ngược có móng dài, chẻ đến tận giữa thành 2 thuỳ tròn. Ra hoa từ tháng 6-10.

2. Bộ phận dùng

Thân rễ, quả – Rhizoma et Fructus Hedychii Coronarii.

3. Nơi sống và thu hái

Loài phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Malaixia, Úc và Việt Nam. Cây mọc ở những vùng có khí hậu mát lạnh và được trồng rộng rãi khắp nước ta.Tốc độ sinh trưởng: Nhanh. Là Cây chịu bóng bán phần. Nhu cầu nước cao, ưa khí hậu mát ẩm. Nhân giống từ giâm cành, mọc khỏe, dễ trồng. Cây ngải tiên trồng 2 năm là có thể dùng để chưng cất tinh dầu.

 Thu hái thân rễ vào mùa thu, đông; dùng tươi hay phơi khô.

4. Thành phần hoá học:

 Hoa chứa 0,05-0,07% một chất sánh với mùi thơm gia vị, cho ra 50-57,8% một chất dầu đặc. Nếu chưng cất bằng hơi nước, chất đông đặc và chất dầu này sẽ cho tinh dầu (hàm lượng 19%) có giá trị cao trong hương liệu. Rễ tươi chứa tinh dầu (1,7%) mà trong thành phần có eucalyptol.

hoa ngai tien s5. Tính vị, tác dụng

Vị cay, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng khư phong trừ thấp, ôn trung tán hàn. Tinh dầu có tính gây trung tiện, trừ giun.

6. Công dụng

 Thường được dùng chữa đau bụng: Thân rễ khô 6-12g sắc uống hoặc tán bột uống. Cũng dùng chữa rắn cắn: Lấy thân rễ tươi giã lấy nước uống, bã đắp.

Ở Hawaii cây được dùng làm thuốc trị thối mũi.

Rễ cây tán bột được dùng làm thuốc hạ nhiệt ở Ấn Độ.

Ở Môluyc, người ta dùng làm thuốc súc miệng; cũng dùng làm thuốc trị tê thấp ở Ấn Độ, tinh dầu cũng được sử dụng làm thuốc trị giun.

Ở Vân Nam (Trung Quốc), thân rễ trị đòn ngã tổn thương, phong thấp gân cốt nhức mỏi, cảm mạo đau mình mẩy, bạch đới nóng lạnh. Quả dùng trị dạ dày bụng đầy trướng, ăn uống không tiêu.

Nguồn : Irc.edu.vn